10 Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một đoạn thơ/bài thơ

Khám phá 10 đoạn văn mẫu ghi lại cảm xúc chân thật về thơ, giúp bạn thể hiện chiều sâu tâm hồn và nâng cao kỹ năng cảm thụ văn học. Dành cho học sinh trung học ôn thi Ngữ văn, SoanVan.com.vn mang đến nguồn tư liệu quý giá để viết bài cảm nhận hay, đạt điểm cao.

TOP 10 Đoạn văn ghi lại cảm xúc về một bài thơ

Mây và sóng

M. Ta-go có khá nhiều bài thơ viết cho trẻ em, trong đó, “Mây và sóng” đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc hơn cả. Nhân vật trữ tình trong bài là một em bé đang kể lại cho mẹ nghe về cuộc trò chuyện của mình với người “trên mây” và “trong sóng”. Lời kể của em bé thật hồn nhiên, ngây thơ làm sao: “Mẹ ơi, trên mây có người gọi con”, “Trong sóng có người gọi con”. Đối với một đứa trẻ, thế giới của người “trên mây” và “trong sóng” kì diệu và hấp dẫn vô cùng. Bởi vậy mà em đã hỏi họ cách để có thể đến với thế giới ấy: “Nhưng làm thế nào mình lên đó được?”, “Nhưng làm thế nào mình ra ngoài đó được?”. Đó chính là khao khát được khám phá thế giới bên ngoài, điều mà bất cứ đứa trẻ nào cũng thích thú và say mê. Mặc dù lời mời gọi của người “trên mây” hay “trong sóng” vô cùng hấp dẫn. Nhưng khi nghe câu trả lời em bé đã kiên quyết từ chối: “Làm sao có thể rời mẹ mà đến được?”, “Làm sao có thể rời mẹ mà đi được?”. Câu hỏi của em bé đã bộc lộ được sự gắn bó, yêu thương dành cho người mẹ. Dù ở bất cứ nơi đâu, hay làm việc gì, em bé cũng đều nhớ đến mẹ, mong muốn được ở bên cạnh mẹ. Chính vì vậy, em đã nghĩ ra một trò chơi có thể chơi cùng mẹ. Với trò chơi này, em bé sẽ luôn được ở bên cạnh mẹ. Đó chính là tình yêu thương của em bé dành cho mẹ. Một tình cảm thật chân thành, đẹp đẽ. Bài thơ được viết theo kiểu thơ tự sự, không bị ràng buộc bởi luật thơ, cách gieo vần. Âm điệu nhịp nhàng, hình ảnh giàu tính biểu tượng, ngôn ngữ cô đọng đã góp phần khiến cho bài thơ giàu cảm xúc hơn. Bài thơ “Mây và sóng” đã giúp người đọc cảm nhận được tình cảm mẫu tử chân thành, giản dị mà đẹp đẽ đến chừng nào.

Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông

Khi đọc bài thơ Những cánh buồm của Hoàng Trung Thông, tôi đã có thật nhiều cảm xúc. Mở đầu bài thơ, tác giả đã khắc họa vẻ đẹp thiên nhiên thật tinh tế với biển cả rộng lớn, bãi cát vàng mịn và ánh mắt trời rực rỡ. Tiếp đến, hình ảnh người và đứa con đang đi dạo trên bãi cát hiện lên thật sinh động. Câu thơ “Bóng cha dài lênh khênh” khiến cho cha bỗng trở nên già dặn hơn, tuổi đời như trải dài trong chiếc bóng dài lênh khênh. Còn đứa con thì lại trở nên thật bé bỏng, đáng yêu với hình ảnh “bóng con tròn chắc nịch”. Hai hình ảnh đối lập của bóng cha và bóng con thật ngộ nghĩnh, dễ thương càng khắc sâu thêm sự khác biệt của hai thế hệ cha – con. Thế rồi, khi nhìn về phía chân trời, đứa trẻ tò mò hỏi người cha: “Cha ơi, sao xa kia chỉ thấy nước thấy trời/Không thấy nhà, không thấy cây, không thấy người ở đó?”. Và với câu trả lời của người cha, đứa con khao khát được khám phá, vì vậy đã mong muốn cha mượn một cánh buồm “trắng” để con đi. Đó chính là mong muốn đi khắp nơi, muốn chinh phục thế giới rộng lớn ngoài kia. Khao khát của con hay cũng chính là khao khát của cha khi con nhỏ. Đứa con sẽ thay người cha thực hiện ước mơ còn dang dở. Bài thơ “Những cánh buồm” đã giúp tôi hiểu được tình cảm phụ tử chân thành, cũng như ước mơ được khám phá cuộc sống của trẻ thơ.

Bài thơ Tiếng Việt của Lưu Quang Vũ

Đoạn thơ trong bài thơ “Tiếng Việt” của Lưu Quang Vũ gợi lên tình yêu tha thiết với tiếng mẹ đẻ, một biểu tượng của văn hóa, lịch sử và tâm hồn dân tộc. Tác giả sử dụng ngôn ngữ đầy hình ảnh, so sánh tiếng Việt với những điều giản dị, gần gũi như “bùn và lụa”, “óng tre ngà và mềm mại như tơ”, thể hiện sự phong phú và mềm mại của ngôn ngữ này. Đây không chỉ là lời ngợi ca về ngôn từ mà còn chứa đựng tình yêu sâu sắc với quê hương, đất nước. Tiếng Việt qua ngòi bút của Lưu Quang Vũ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa các thế hệ. Những thanh âm bình dị như “tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát” hay “dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh” gợi lên sự gần gũi trong cuộc sống hàng ngày, nhưng cũng mang đậm nét độc đáo, khó nắm bắt của tiếng Việt. Đoạn thơ còn nhấn mạnh tính lịch sử, khẳng định sức mạnh trường tồn của tiếng Việt, bất chấp mọi thăng trầm của dân tộc, từ khi Loa thành thất thủ đến bi kịch của Mỵ Châu. Tác giả đã dùng phép liệt kê và hình ảnh liên tưởng để vẽ nên bức tranh về ngôn ngữ của dân tộc, như một kho báu vô giá, chứa đựng biết bao nhiêu ký ức và tình cảm. Bài thơ khiến người đọc tự hào về tiếng mẹ đẻ, về văn hóa dân tộc, cũng như ý thức được trách nhiệm bảo tồn và phát huy giá trị của tiếng Việt trong thời đại mới.

Quê hương – Nguyễn Bính

Đoạn thơ trong bài “Quê hương” của Nguyễn Bính là một bức tranh sinh động về quê hương Việt Nam, nơi mà từng hình ảnh, từng câu chuyện cổ tích và ca dao đều gắn kết chặt chẽ với truyền thống và đời sống của người dân. Qua những câu thơ, tác giả đã khắc họa hình ảnh quê hương không chỉ là một không gian địa lý mà còn là một thế giới văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Hình ảnh cô Tấm náu mình trong quả thị, tiếng đàn “tích tịch tình tang”, hay câu chuyện người em may túi đúng ba gang gợi lên những kỷ niệm về những câu chuyện cổ tích thân thuộc, làm sống lại một thế giới tuổi thơ đầy màu sắc. Đây là những giá trị văn hóa ngàn đời của dân tộc, luôn tồn tại và chảy trong dòng máu của mỗi con người Việt Nam. Cũng trong đoạn thơ này, tác giả còn khéo léo gợi nhắc đến tình nghĩa vợ chồng qua hình ảnh “một đĩa muối”, “một dây trầu” – những vật phẩm tuy đơn giản nhưng lại thấm đượm nghĩa tình và lòng chung thủy. Tất cả như đang hòa quyện vào thiên nhiên, tạo nên một bức tranh quê hương tràn đầy tình yêu thương và sự gắn kết. Đặc biệt, hình ảnh quê hương trong thơ Nguyễn Bính không chỉ là nơi gìn giữ những giá trị văn hóa, mà còn là mảnh đất thấm đẫm sự kiên cường của người Việt trong quá trình dựng nước và giữ nước. Những câu thơ về bà Trưng, bà Triệu cưỡi voi đánh giặc, hay Lê Lợi trường kỳ kháng chiến, nhắc nhở ta về những trang sử hào hùng của dân tộc. Nhìn chung, đoạn thơ này không chỉ là lời ca tụng về vẻ đẹp quê hương, mà còn là sự tôn vinh những giá trị văn hóa, lịch sử sâu sắc của dân tộc, qua đó gợi lên niềm tự hào và tình yêu sâu đậm đối với quê hương đất nước.

Tổ Quốc ở Trường Sa – Nguyễn Việt Chiến

Đoạn thơ trong bài “Tổ Quốc ở Trường Sa” của Nguyễn Việt Chiến là một bài ca hùng tráng, khắc họa hình tượng người chiến sĩ Việt Nam kiên cường bảo vệ biển đảo quê hương. Cảm xúc về đoạn thơ này gợi lên sự biết ơn, tự hào và lòng kính trọng đối với những anh hùng đã hy sinh nơi đảo đá Gạc Ma, với hình ảnh họ đứng hiên ngang “như tượng đài quyết tử.” Tác giả đã ví sự hy sinh ấy như một hành động cao cả để “thêm một lần Tổ quốc được sinh ra”, một câu thơ đậm chất sử thi, gợi lên sự phục sinh của đất nước từ máu xương của những người con dũng cảm. Ngôn ngữ của bài thơ vừa chắc khỏe, vừa mềm mại, thể hiện sự bi tráng trong cuộc chiến, nhưng cũng đầy trữ tình khi nhắc đến tình mẫu tử thiêng liêng. Hình ảnh “Họ đã lấy ngực mình làm lá chắn” và “Cờ Tổ quốc phất lên trong mưa đạn” gợi lên những khung cảnh đầy cảm xúc, làm nổi bật sự kiên cường và hy sinh của người lính. Đặc biệt, đoạn thơ khép lại với câu hỏi đầy xúc động: “Nếu mẹ gặp cánh chim về từ biển, Con đấy mà, mẹ đã nhận ra chưa?” – một lời nhắn gửi thấm đượm tình cảm của người con xa xứ, như cánh chim trở về trong hy vọng và đau thương. Cảm xúc khi đọc đoạn thơ là sự tự hào về tinh thần yêu nước và sự hy sinh của những chiến sĩ đã ngã xuống để bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của dân tộc. Tác phẩm không chỉ tôn vinh những người lính, mà còn gợi nhắc mỗi chúng ta về trách nhiệm đối với Tổ quốc, khơi dậy tình yêu quê hương trong lòng mọi người dân Việt Nam.

Con là – Y Phương

Đến với bài thơ “Con là…”, tác giả Y Phương đã giúp người đọc có những cảm nhận sâu sắc về tình cảm gia đình. Người cha trong bài đã gửi gắm lời nhắn nhủ với đứa con bé bỏng, từ đó thể hiện tình yêu thương sâu sắc. Cụm từ “Con là” được nhắc lại ở đầu mỗi khổ thơ để khẳng định tầm quan trọng của đứa con đối với người cha. Khi con là “nỗi buồn”, thì dù nỗi buồn đó có to lớn bằng trời nhưng vì có con, nỗi buồn đó cũng được xua tan đi. Khi con là “niềm vui”, thì dù niềm vui đó có nhỏ bé như hạt vừng, nhưng vì có con, niềm vui đó lại trở nên thật mãnh liệt, và tồn tại vĩnh cửu. Con còn là “sợi dây hạnh phúc” giúp cha và mẹ trở nên gắn bó, thấu hiểu hơn. Trong cuộc đời nhiều biến động, đôi lúc vô tình cha và mẹ dần xa nhau, nhưng nhờ có con là kết nối mà cha mẹ lại trở nên gắn kết hơn. Sợi dây hạnh phúc nơi con dù “mảnh hơn cả sợi tóc” nhưng lại bền chặt hơn tất thảy, đưa cha mẹ về với những yêu thương ban đầu. Như vậy, tình cảm của cha dành cho con được thể hiện một cách sinh động. Đó là tình yêu thương lớn lao, nhưng bình dị. Con có vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống của người cha, cũng là mối liên kết không thể mất đi của cha và mẹ.

Chuyện cổ nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ

Lâm Thị Mỹ Dạ với bài thơ “Chuyện cổ nước mình” đã để lại cho tôi nhiều ấn tượng. Bài thơ được mở đầu bằng lời khẳng định về tình yêu dành cho “chuyện cổ”: “Tôi yêu chuyện cổ nước tôi”. Đồng thời, tác giả cũng ca ngợi “chuyện cổ” vừa “nhân hậu, lại tuyệt vời sâu xa” – gửi gắm những bài học cho con cháu mai sau. Đó là lối sống tình nghĩa thủy chung hay sống hiền lành, nhân hậu thật đáng quý biết bao. Nhân vật trữ tình trong bài – “tôi” đã có được những câu chuyện cổ là hành trang vô cùng hữu ích. Lâm Thị Mỹ Dạ đã giúp tôi hiểu thêm về quá khứ vẻ vang của dân tộc. Thời gian qua có thể trải qua hàng thế kỉ, nhưng những câu chuyện cổ thì vẫn còn được kể lại từ đời này qua đời khác. Những câu thơ ngắn gọn nhưng giúp người đọc hình dung ra về truyện cổ tích với chàng Thạch Sanh thông minh, cô Tấm hiền lành hay anh chàng đẽo cày giữa đường… Từ đó, nhà thơ gửi gắm về cách sống của con người Việt Nam từ ngàn đời này. “Chuyện cổ nước mình” đã trở thành hành trang tinh thần, đem đến cho nhà thơ nhiều sức mạnh để vượt qua mọi thử thách “nắng mưa”trong cuộc đời, để đi tới mọi miền quê, mọi chân trời xa xôi đẹp đẽ. Có thể thấy, bài thơ sử dụng những hình ảnh quen thuộc, ngôn ngữ giản dị để giúp người đọc hiểu hơn về “chuyện cổ”. Khi đọc bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, tôi đã hiểu được vì sao nhân dân ta từ người trẻ đến người già, ai cũng yêu thích “chuyện cổ nước mình”, để từ đó tôi cũng biết yêu quý và trân trọng nhiều hơn.

Việt Nam quê hương ta – Nguyễn Đình Thi

Tình yêu quê hương, đất nước là một đề tài vô cùng quen thuộc, một trong số những thơ viết về đề tài này phải kể đến Việt Nam quê hương ta của Nguyễn Đình Thi. Tôi đã có rất nhiều cảm nhận khi đọc bài thơ này. Mở đầu bài thơ, tác giả đã tinh tế vẽ nên một bức tranh hài hòa màu sắc, cảnh vật của làng quê Việt Nam với những hình ảnh đã vô cùng quen thuộc. Khung cảnh thiên nhiên h iện lên mang vẻ hùng vĩ, mà vẫn thanh bình. Thật xót xa khi quê hương thân yêu đã phải chịu biết bao đau thương. Những con người vất vả làm lụng ngày này tháng khác. Trong chiến tranh, mảnh đất nghèo đã nuôi dưỡng con người anh hùng. Họ đã đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc. Dù chìm trong máu lửa đau thương, nhưng dân tộc Việt Nam vẫn kiên cường đứng lên đấu tranh để giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Không chỉ vậy, bài thơ còn giúp tôi hiểu được rằng con người Việt Nam đầy tài năng – “trăm nghề của trăm vùng”. Mỗi mảnh đất đều nổi tiếng với một nghề truyền thống được truyền từ đời ông cha để lại. Bài thơ Việt Nam quê hương ta giúp tôi thêm tự hào về quê hương, đất nước của mình sau khi đọc bài thơ.

Hoa bìm – Nguyễn Đức Mậu

Một trong những bài thơ tôi cảm thấy vô cùng yêu thích là “Hoa bìm” của Nguyễn Đức Mậu. Khung cảnh làng quê Việt Nam đã hiện lên vô cùng đẹp đẽ, thơ mộng dưới ngòi bút của tác giả. Và giậu hoa bìm chính là hình ảnh đã gợi nhắc về những kỉ niệm tuổi thơ đó. Hình ảnh chú chuồn chuồn ớt lơ ngơ đậu hờ trên nhành gai ươm hồng cả một trời tuổi thơ của trẻ em. Mảnh vườn đầy nắng với cây hồng trĩu quả ngọt ngào ru êm cho buổi trưa mùa hè yên ả. Cánh diều tuổi thơ vẫn bay lượn trên bầu trời. Bến nước, con thuyền và những con côn trùng cất bản đồng ca cho tuổi thơ thêm thi vị. Tất cả hiện lên qua những câu thơ ngắn gọn mà giàu hình ảnh. Ở hai câu thơ cuối cùng, tác giả đã đặt ra câu hỏi tu từ “Mười năm chốn cũ, em chưa hẹn về…?” nhưng thực chất là bộc lộ tâm trạng. Đó là nỗi lòng thương nhớ người bạn thơ ấu và quê hương của tác giả. Bài thơ đã đem đến cho tôi thật nhiều cảm xúc đẹp đẽ.

Đánh thức trầu – Trần Đăng Khoa

Tôi rất thích bài thơ Đánh thức trầu của Trần Đăng Khoa. Tác phẩm bao gồm lời hát của bà và lời hát của cháu. Mở đầu lời của bà là câu “Mày làm chúa tao/Tao làm chúa mày” như lời nhắc nhở rằng con người cần biết tôn trọng tự nhiên, không nên coi mình là chúa tể có thể thống trị, điều khiển thiên nhiên. Câu thơ tiếp “Tao không hái ngày/ Thì tao hái đêm” nhắc đến một quan niệm trong dân gian. Khi muốn hái trầu vào ban đêm, phải gọi cho trầu tỉnh ngủ rồi mới xin “hái vài lá”. Quan niệm trên tuy chưa có căn cứ về tính xác thực nhưng tôi đã cảm nhận được sự trân trọng, nâng niu của con người trong cách đối xử với cây cối. Tiếp đến là những câu hát của cháu, với cách xưng hô “mày – tao” tạo cảm giác gần gũi thân thiết giữa con người và cây trầu. Những lời hỏi han, động viên trầu “Đã ngủ rồi hả trầu?, “Trầu ơi, hãy tỉnh lại/Mở mắt xanh ra nào”, “Đừng lụi đi trầu ơi”. Lời thơ gợi ra tình cảm yêu mến, gắn bó và coi trọng như một người bạn. Đánh thức trầu là bài thơ tuy đơn giản nhưng sâu sắc, ý nghĩa.


Hy vọng 10 đoạn văn ghi lại cảm xúc về thơ này đã giúp bạn có thêm nguồn cảm hứng và ý tưởng để diễn đạt những rung động trước tác phẩm văn học. SoanVan.com.vn chúc các bạn học sinh ôn thi môn Ngữ văn thật tốt, tự tin trình bày cảm nhận sâu sắc và đạt được kết quả cao nhất trong các kỳ thi sắp tới!

Comments

No comments yet. Why don’t you start the discussion?

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *